Partner im RedaktionsNetzwerk Deutschland
Höre Tạp chí Việt Nam in der App.
Höre Tạp chí Việt Nam in der App.
(7.565)(6.472)
Sender speichern
Wecker
Sleeptimer
Sender speichern
Wecker
Sleeptimer
StartseitePodcastsRegierung
Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Podcast Tạp chí Việt Nam
Podcast Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

RFI Tiếng Việt
hinzufügen
Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam Mehr
Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam Mehr

Verfügbare Folgen

5 von 24
  • Đàm phán về COC: Đối lập quan điểm Việt Nam - Trung Quốc
    Do có quá nhiều khác biệt quan điểm, nhất là giữa Việt Nam với Trung Quốc, Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông ( COC ) không thể sớm được thông qua, cho dù Indonesia, với tư cách chủ tịch luân phiên của ASEAN năm nay, đang cố thúc đẩy các cuộc đàm phán. Kể từ khi Nga xua quân xâm lược Ukraina vào tháng 2/2022, cả thế giới đều lo ngại kịch bản tương tự sẽ xảy ra ở eo biển Đài Loan, tức là là Trung Quốc cũng sẽ đánh chiếm hòn đảo này, thậm chí có những người nêu lên thời điểm của sự kiện này sẽ là 2025 hay 2027, tức là không bao lâu nữa. Nhưng thật ra một điểm nóng khác cũng cần mọi người chú ý đến vì đây mới thật sự là nơi mà hai cường quốc hàng đầu thế giới hiện nay là Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể đụng độ với nhau, với nguy cơ làm bùng nổ Thế Chiến Thứ Ba, đó là Biển Đông, vùng biển đầy những tranh chấp giữa các nước trong khu vực, đặc biệt là giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines.  Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục có những hành động nhằm xác quyết chủ quyền trên phần lớn Biển Đông. Chính là nhằm tránh cho những vụ va chạm trên biển dẫn đến xung đột vũ trang, vào năm 2002, Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).  Nhưng, như tên gọi của nó, đây chỉ là một “tuyên bố”, hoàn toàn không có tính chất ràng buộc, mà tùy thuộc vào thiện chí thi hành của các bên. Cho nên từ nhiều năm qua, Bắc Kinh và các nước ASEAN đã cố đàm phán nhằm đạt được một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), một văn bản mà trên nguyên tắc mang tính chất ràng buộc pháp lý, tất cả bên đều phải tuân thủ.  Trả lời RFI Việt ngữ ngày 19/04/2023, nhà nghiên cứu Hoàng Việt, chuyên gia về Biển Đông ở Việt Nam, nhắc lại:  “Ý tưởng về một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC đã có từ những năm 1990, thời kỳ xảy ra rất nhiều căng thẳng trên khu vực Biển Đông, khi Trung Quốc tấn công Việt Nam ở Gạc Ma, khiến 64 người chết. Sau đó, vào năm 1995, Trung Quốc cũng đã sử dụng biện pháp quân sự để chiếm đoạt Bãi Vành Khăn trong tay quân đội Philippines lúc đó.  Trước những căng thẳng như vậy, Philippines cũng là một trong những các bên đã cố gắng kêu gọi ASEAN  tìm kiếm một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông. Sau đó, tất cả các bên đã ngồi vào bàn đàm phán. Nhưng rốt cuộc COC vẫn chưa ra đời. Để vớt vát, người ta đã đưa ra cái gọi là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC, được ký kết ở Cam Bốt năm 2002. Tuyên bố này đơn thuần là một tuyên bố về chính trị.  Bắt đầu từ năm 2007 trở đi, vấn đề Biển Đông bắt đầu lại nóng lên và đặc biệt là năm 2009, khi mà theo Công ước về Luật Biển thì một quốc gia ven biển được có một vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý tính từ đường cơ sở, tối đa là 350 hải lý, nếu chứng minh được đó là sự kéo dài của thềm lục địa. Muốn làm điều này thì các quốc gia đó phải làm hồ sơ và trình lên Ủy ban về ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc trước ngày 15/09/2009. Khi Việt Nam và Malaysia gởi công hàm và các hồ sơ lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa, thì lập tức Trung Quốc đưa ra công hàm phản đối, kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò". Từ đó trở đi, Trung Quốc liên tục có những hành động gây căng thẳng. Đến lúc đó người ta mới nghĩ đến chuyện tìm kiếm một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC. Đến 2012, bản dự thảo đầu tiên của COC do Indonesia khởi thảo đã được đưa ra và hầu hết các nước ASEAN đều đồng ý với nội dung bản dự thảo này, nhưng “nhân vật” quan trọng nhất là Trung Quốc lại không đồng ý. Chính vì vậy là rất là lâu, kể từ 2012, đã có rất nhiều cuộc bàn thảo về COC, nhưng tất cả đều “dậm chân tại chỗ” . Mãi tới gần đây, người ta mới đưa ra được những cái gọi là “đồng ý ban đầu” về COC.  Thế nhưng, do đại dịch Covid-19, các bên không thể gặp nhau được, cho nên vẫn chưa có bước tiến trong đàm phán về COC. Sau khi hết đại dịch, mãi đến cuối năm 2022 đầu năm 2023, Trung Quốc mới chính thức bãi bỏ chính sách zero-Covid, mở đường cho các nhà ngoại giao Trung Quốc có thể ra ngoài, các cuộc họp lại tiếp tục. Năm ngoái, Cam Bốt, nước chủ tịch luân phiên của ASEAN, quốc gia có mối liên hệ gần gũi với Trung Quốc. Thủ tướng Hun Sen của Cam Bốt đã từng nói:” Nếu tôi không dựa vào Trung Quốc thì dựa vào ai?”. Năm 2012, lần đầu tiên hội nghị ngoại trưởng ASEAN đã không ra được thông cáo chung, bởi vì lúc ấy, Cam Bốt, với tư cách chủ nhà, tìm cách ngăn cản các bên đưa ra bản tuyên bố chung với những điều khoản bất lợi cho Trung Quốc. Năm đó cũng là năm xảy ra sự kiện Scarborough của Philippines bị Trung Quốc chiếm đoạt. Một trong những yếu tố quan trọng nhất đó là Trung Quốc vẫn chưa thật sự nhiệt tình đàm phán về COC.  Trong thời gian qua, các bên vẫn đàm phán về một bộ quy tắc COC, nhưng còn nhiều bất đồng. Đầu tiên là về mục đích: Các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là những nước có liên quan đến tranh chấp Biển Đông ( Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia ), hay những nước không có quan hệ trực tiếp với Biển Đông, nhưng gắn liền với biển, như Singapore đều muốn sử dụng COC để kềm chế, khiến Trung Quốc không thể có những hành động leo thang ở Biển Đông.” Thật ra, theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, mục tiêu của Trung Quốc khi đàm phán về COC hoàn toàn khác với mục tiêu của các nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Bắc Kinh:  “Trung Quốc lại có một mục tiêu khác, muốn sử dụng COC như một biện pháp ngăn chận, tức là sau khi đã bồi lắp, quân sự hóa những thực thể mà họ đang chiếm giữ ở Biển Đông, kể cả tại Hoàng Sa và Trường Sa, họ không muốn các quốc gia tranh chấp khác làm giống như họ.  Thứ hai, chúng ta biết có một quốc gia đóng vai trò quan trọng cho dù không trực tiếp liên quan đến tranh chấp Biển Đông, đó là Hoa Kỳ. Trung Quốc rất không muốn Hoa Kỳ tham gia vào Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, mà muốn sử dụng Bộ quy tắc ứng xử như một công cụ để đẩy Mỹ ra ngoài. Nhưng những quốc gia như Philippines đã tuyên bố là không thể gạt Mỹ ra khỏi tiến trình đàm phán COC. Có rất nhiều khác biệt giữa các bên, chưa kể nội dung của Bộ quy tắc cũng là một câu chuyện rất dài.”  Mặc dù các cuộc đàm phán đã đạt được một bước tiến vào năm 2018 khi Trung Quốc và ASEAN thông qua được “Văn bản Dự thảo Đàm phán Duy nhất (Single Draft Negotiating Text), nhưng đó lại là một tập hợp các quan điểm trái ngược nhau về các vấn đề gây tranh cãi về tính pháp lý, phạm vi áp dụng, về cơ sở pháp lý quốc tế và về cơ chế giải quyết tranh chấp. Riêng quan điểm của Việt Nam về nội dung của COC là như thế nào? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích: “Trong ASEAN cũng chia thành nhóm có lợi ích trực tiếp liên quan đến tranh chấp Biển Đông gồm có Indonesia, Việt Nam, Philippines và Malaysia, những quốc gia có vùng biển bị “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xâm lấn. Quan điểm của Việt Nam về Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông được rất nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam nói, đó là Bộ quy tắc này phải khắc phục được những khiếm khuyết của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC, vì DOC đã không ngăn cản được những hành động của Trung Quốc khiến cho căng thẳng Biển Đông vẫn xảy ra.   Quan điểm của Việt Nam là COC phải mang tính ràng buộc về pháp lý. Ràng buộc về pháp lý có nghĩa là nếu một trong các bên vi phạm, thì một  trong các bên còn lại, hoặc tất cả các bên còn lại có thể mang sự vi phạm đó ra trước cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết. Nội dung thứ hai và Việt Nam đưa ra có lẽ khác với các nước khác. Gần như các quốc gia Đông Nam Á khác, như Indonesia thì không liên quan trực tiếp đến tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ có vùng Bắc Natuna nằm trong “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, còn Brunei, Malaysia thì chỉ có liên quan đến tranh chấp khu vực Trường Sa. Trung Quốc cũng muốn đưa ra một bản COC chỉ dành cho Trường Sa mà thôi, bởi vì họ muốn gạt Hoàng Sa ra một bên. Trong khi đó Việt Nam muốn là bằng mọi giá COC phải bao gồm những khu vực tranh chấp khác, trong đó có cả Hoàng Sa. Còn Philippines thì đương nhiên muốn bao gồm cả khu vực Scarborough, khu vực tranh chấp giữa họ với Trung Quốc.  Đó là những khác biệt lớn nhất. Ngoài ra còn có những vấn đề chẳng hạn như phía Việt Nam đã nhiều lần đề nghị ghi trong nội dung của COC là các bên không được bồi lắp hoặc quân sự hóa các thực thể khác. Việt Nam cũng đề xuất là phải vận dụng tinh thần của phán quyết về Biển Đông 2016 vào trong nội dung của COC.”  Do có quá nhiều khác biệt quan điểm như trên, khó có khả năng COC sớm được thông qua, cho dù Indonesia, với tư cách chủ tịch luân phiên của ASEAN năm nay, đang cố thúc đẩy các cuộc đàm phán. Cuộc họp thượng đỉnh ASEAN tại Labuan Bajo, Indonesia ( 9-11/05/2023 ) đã không đạt được một tiến bộ nào về hồ sơ này, ngoài lời cam kết là khối các nước Đông Nam Á sẽ nỗ lực để sớm kết thúc đàm phán về COC. Theo tin báo chí trong nước, tại hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN - Trung Quốc về Tuyên bố ứng xử các bên trên Biển Đông, ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, ngày 17/05/2023, trưởng đoàn Việt Nam Vũ Hồ đã kêu gọi các bên “nói đi đôi với làm”, tức là phải thực hiện nghiêm túc mọi điều khoản của DOC. Tuyên bố này thể hiện sự bực tức của Hà Nội trước “những diễn biến phức tạp” trên Biển Đông, ám chỉ đến các vụ tàu khảo sát của Trung Quốc sách nhiễu các tàu khảo sát của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoặc quấy phá các hoạt động thăm do dầu khí của Việt Nam.
    22.5.2023
    9:28
  • Nga sẽ "không" ủng hộ Việt Nam nếu xảy ra xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông ?
    Trung Quốc lại huy động « một số lượng lớn tầu dân quân và tầu hải cảnh » đến gần khu vực khai thác khí đốt của Việt Nam ở Biển Đông trong ngày 10/05/2023. Theo chuyên gia Ray Powell, Đại học Stanford (Mỹ), hoạt động này có tính chất « bất thường », có thể được coi là « thông điệp về quyền tài phán của Trung Quốc đối với các hoạt động dầu khí của Việt Nam ».  Bắc Kinh sau đó xác nhận điều này, khi khẳng định tầu của Trung Quốc chỉ hoạt động « bình thường » trong vùng biển « thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ». Đội tầu của Trung Quốc hoạt động cách lô 04-03 của Vietsovpetro khoảng 32 km. Vietsovpetro là liên doanh giữa tập đoàn Nga Zarubezhneft và PetroVietnam. Sự kiện này xảy ra vào lúc Matxcơva đang xích lại gần với Bắc Kinh nhằm tìm kiếm hậu thuẫn và hình thành một liên minh đối trọng với phương Tây, trong khi Nga cũng là đối tác quan trọng của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quân sự và khai thác dầu khí. Liệu sự phụ thuộc chặt chẽ hơn vào Bắc Kinh có khiến Matxcơva điều chỉnh thái độ với Hà Nội ? Nga sẽ nhắm mắt làm ngơ trước yêu sách của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư Phạm Lyon, Pháp. RFI : Nhiều doanh nghiệp Nga tham gia khai thác dầu khí ở Biển Đông, trong khi Việt Nam dường như từng phải hủy một số dự án với các công ty nước ngoài khác, ví dụ với tập đoàn Tây Ban Nha Repsol. Các tập đoàn dầu khí Nga có phải là một phương tiện hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông ?   Laurent Gédéon : Đúng là Trung Quốc không ngừng gây sức ép làm Việt Nam nản lòng trong việc tự thăm dò dầu khí, kể cả trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Vì thế Bắc Kinh đã dùng cả những biện pháp đe dọa quân sự trực tiếp, gây áp lực với các công ty nước ngoài tham gia những dự án đó. Yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong phạm vi đường 9 đoạn đã được định hình lại năm 2017 và gộp cả phần lớn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong đó có gần 70 mỏ dầu khí. Chúng ta còn nhớ là vào tháng 07/2019, đội tầu Hải Dương địa chất 8 của Trung Quốc, gồm 1 tầu khảo sát và 4 tầu hải cảnh, đã qua lại thường xuyên gần hai cụm dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gây xáo trộn hoạt động thăm dò.   Có thể thấy Bắc Kinh tiến hành một cách bài bản chiến lược gây áp lực với đối tác nước ngoài tham gia vào những dự án dầu khí ở Việt Nam nhằm buộc họ từ bỏ thị trường và cản trở hoạt động khai thác dầu mỏ của Việt Nam. Chiến lược này đã được áp dụng hiệu quả đối với công ty Repsol. Năm 2018, chi nhánh của công ty Tây Ban Nha tại Việt Nam đã phải tạm dừng hoạt động do bị Trung Quốc đe dọa trực tiếp. Đến năm 2019, Repsol rút khỏi thị trường Việt Nam. Không chỉ riêng Repsol, Trung Quốc gây áp lực với nhiều công ty dầu khí nước ngoài khác tham gia ở Việt Nam, như Mubadala Petroleum đến từ Abu Dhabi (Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất).  Tuy nhiên, vấn đề lại phức tạp hơn đối với các đối tác Nga. Ví dụ, tháng 05/2018, tập đoàn Rosneft bày tỏ quan ngại với Hà Nội về việc Bắc Kinh tái xác định đường 9 đoạn với hệ quả là gộp cả mỏ Lan Đỏ do tập đoàn Nga khai thác vào khu vực Trung Quốc đòi chủ quyền. Quan ngại được đưa ra trong bối cảnh suốt nhiều năm trước, Bắc Kinh đã không thuyết phục được Matxcơva chấm dứt hoạt động của Rosneft ở Biển Đông, cũng như ở trong vùng. Năm 2013, Bắc Kinh từng phản đối khi Rosneft bắt đầu thăm dò ở mỏ Lan Đỏ. Trái lại, Trung Quốc đã thu được một thành công khi một dự án hợp tác giữa PetroVietnam và nhà sản xuất khí đốt Nga Gazprom bị đình chỉ năm 2016.  Trong bối cảnh nhạy cảm đó, người ta thấy là từ vài năm gần đây, các tập đoàn Nga - tất cả đều thân với chính quyền Matxcơva - tiến hành chiến lược tránh rời khỏi « chiến tuyến » và dốc sức để không bị « hất » khỏi thị trường Việt Nam. Nga muốn trở thành một nhân tố năng động hơn về kinh tế lẫn chiến lược ở Đông Nam Á. Matxcơva cũng không muốn Bắc Kinh kiểm soát những tuyến đường hàng hải chiến lược về địa-chính trị nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.  Theo tôi, tham vọng này của Nga càng được củng cố thêm trong bối cảnh xung đột ở Ukraina, đồng thời bổ trợ cho chiến lược của Hà Nội đang tìm cách gia tăng quan hệ với các đối tác ngoài khu vực để giảm phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Theo tôi, có thể khẳng định rằng có sự đồng nhất về lợi ích giữa Việt Nam và Nga thông qua trung gian là các công ty dầu khí. Mục đích là không để cho Trung Quốc có quá nhiều không gian kinh tế và chiến lược ở Biển Đông. Cho nên chừng nào vị thế của Nga chưa bị suy yếu quá nhiều, ví dụ do tác động từ thất bại ở Ukraina nếu xảy ra chẳng hạn, Hà Nội vẫn có thể dựa vào đối tác hùng mạnh này để chống đỡ áp lực từ Trung Quốc.   Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam dừng thêm một dự án dầu khí vì sức ép từ Bắc KinhRFI : Tuy nhiên, chúng ta thấy là Nga có xu hướng ngả theo Bắc Kinh và đang củng cố mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực với Trung Quốc. Những tập đoàn dầu khí Nga hoạt động ở Biển Đông sẽ bị tác động như thế nào, trong khi thường họ có thể « theo lệnh » từ Matxcơva ?   Laurent Gédéon : Để trả lời cho câu hỏi này, phải biết là mối quan hệ giữa Matxcơva và Bắc Kinh được đánh dấu bằng sự phụ thuộc vào nhau rất mạnh về địa-chính trị và sự thuộc lẫn nhau đó lại không liên quan đến tình trạng bất đối xứng đặc trưng cho hai nước này. Sự phụ thuộc này bắt nguồn từ ý đồ của Trung Quốc muốn hướng tới tái cân bằng các cực quyền lực trên thế giới.   Như chúng ta biết chiến lược của Trung Quốc đã khiến Washington ngày càng mất niềm tin. Hoa Kỳ từng bước đưa ra một khuôn khổ nhằm kiềm chế tham vọng của Bắc Kinh, đặc biệt là ở các vùng biển sát với Trung Quốc, có nghĩa là trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Được bắt đầu dưới thời tổng thống Barack Obama với tên gọi « chiến lược xoay trục sang châu Á », chính sách này tiếp tục được mở rộng dưới thời tổng thống Donald Trump với « thương chiến Mỹ-Trung » và hiện giờ dưới thời Joe Biden là Hoa Kỳ thắt chặt quan hệ chiến lược với các đồng minh trong vùng, triển khai những cơ chế liên minh mới, như liên minh quân sự AUKUS được ba nước Mỹ, Úc, Anh công bố ngày 15/09/2021.   Trong toàn cảnh như vậy, Trung Quốc không thể đơn độc đối đầu với cả khối phương Tây. « Phương Tây » ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là gồm cả những nước có liên quan đến khối này, kể cả những nước ở châu Á. Bắc Kinh phải huy động mọi sự ủng hộ quốc tế. Để làm được việc này, đối với Trung Quốc, chắc chắn Nga đại điện cho sức mạnh về quân sự, ngoại giao và chính trị, như tôi đã đề cập ở trên về việc hai nước này phụ thuộc chặt chẽ vào nhau về địa-chính trị. Để thấy điều này, chỉ cần nhìn vào sự trùng hợp giữa các lá phiếu của Nga và Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc trong thập niên vừa qua.   Dù hiện giờ người ta nhắc đến khả năng Nga lâm thế phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc nhưng còn lâu mới thấy cảnh Matxcơva tuân lệnh Bắc Kinh về chính sách đối ngoại hoặc kinh tế. Tôi cho rằng điều này cũng sẽ liên quan đến các doanh nghiệp dầu khí Nga ở Việt Nam. Khả năng hành động của những công ty này phụ thuộc vào Nhà nước Nga, vào sự cân bằng quyền lực ngoại giao tế nhị giữa Matxcơva và Bắc Kinh. Dẫu sao chắc chắn là sự hiện diện của những công ty này cho phép Nga đánh dấu sự khác biệt của họ. Rất có thể nếu thế cân bằng Nga-Trung được duy trì nguyên trạng thì các công ty dầu mỏ Nga sẽ duy trì hoạt động ở Việt Nam.  Đọc thêm : Quan hệ Nga - Trung : Liên minh quân sự để bắt đầu một “kỷ nguyên mới”RFI : Có nghĩa là hiện giờ Việt Nam không cần quá lo lắng về nguy cơ Nga ủng hộ những yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trong đường 9 đoạn ở Biển Đông ?   Laurent Gédéon : Trong bối cảnh phụ thuộc vào nhau về địa-chính trị như tôi vừa nêu, Nga không thể đi xa hơn việc ủng hộ những yêu sách của Trung Quốc đối với Đài Loan lẫn Biển Đông. Chúng ta thấy là Trung Quốc từ chối lên án cuộc xâm lược Ukraina và chỉ kêu gọi các bên tham chiến đối thoại. Ngoài ra, cũng cần nhấn mạnh đến sức mạnh và đặc thù của mối quan hệ Nga - Trung nên rất khó cho Matxcơva lên tiếng chỉ trích những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh.   Thêm vào đó phải kể đến những yếu tố mang tính pháp lý và lịch sử bởi vì Matxcơva biện minh cho cuộc xâm chiếm bán đảo Crimée vì đó là vùng đất lịch sử của Nga, ít nhất là từ năm 1792. Tương tự, Trung Quốc cũng viện đến lập luận lịch sử để đòi chủ quyền với hầu hết vùng Biển Đông. Nhìn từ phía Nga, có thể thấy mối quan hệ song song giữa Crimée - vùng đất lịch sử của Nga với Biển Đông - vùng biển lịch sử của Trung Quốc nếu tin theo lập luận của Bắc Kinh. Vì những lý do chiến thuật đó, Matxcơva có thể có xu hướng ủng hộ Bắc Kinh theo hướng này.   Theo tôi, dù có lập luận như thế, không có nghĩa là Matxcơva sẽ tự động và ủng hộ hết mình một « cuộc đảo chính » của Trung Quốc ở Biển Đông. Thực vậy, Nga cũng ý thức rằng khả năng địa-chính trị của nước láng giềng hùng mạnh trong chừng mực nào đó phải bị hạn chế bởi vì mọi sự củng cố sức mạnh của Trung Quốc sẽ có nguy cơ gây bất lợi cho Nga trong quan hệ song phương bất đối xứng hiện nay.   Chúng ta có thể sẽ thấy là Nga sẽ không ủng hộ mạnh mẽ hành động của Trung Quốc như Bắc Kinh mong đợi. Thêm vào đó Nga gắn bó với Việt Nam từ lâu, từ thời kỳ Liên Xô hỗ trợ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó là nước CHXHCN Việt Nam, giúp Việt Nam trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979. Có thể thấy rằng Việt Nam không phải chỉ là một cơ hội chính trị và chiến thuật đối với Nga mà còn nằm trong khuôn khổ quan hệ lâu dài cho thấy mối quan hệ mật thiết, bền vững giữa hai nước.   Đọc thêm : Biển Đông : Nga-Việt Nam kêu gọi nhanh chóng thông qua Bộ Quy Tắc Ứng XửRFI : Việt Nam và Nga nhất trí là không can thiệp vào chuyện nội bộ của nhau. Giả sử xảy ra xung đột liên quan đến tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, liệu Việt Nam có thể trông cậy vào hỗ trợ của Nga ?  Laurent Gédéon : Trong trường hợp như vậy thì ví dụ ở vùng Thượng Karabakh không cho thấy lạc quan lắm. Hiện giờ, Nga bị kéo vào cuộc xung đột khó khăn ở Ukraina và duy trì mối quan hệ ngoại giao phức tạp với các cường quốc khác. Những nước này không công khai ủng hộ hành động của Nga ở Ukraina nhưng từ chối lên án và cũng không tham gia phần nào vào cơ chế trừng phạt Matxcơva do phương Tây áp đặt. Tuy nhiên, sự ủng hộ này, xuất phát từ việc có chung lập trường chính trị hoặc có chung lợi ích chiến lược và địa-chính trị, cũng phải có qua có lại. Đây là điểm liên quan đặc biệt đến hai nước Nga và Trung Quốc.   Tôi lấy ví dụ vùng Thượng Karabakh là bởi vì Nga vẫn được Armenia coi là một trụ cột hỗ trợ vững chắc, kể cả lúc khủng hoảng tháng 10/2020. Nga chủ trì cuộc hưu chiến ngày 10/11/2020 và chính lính Nga được triển khai trong vùng lãnh thổ tranh chấp và ở hành lang Latchine nối vùng này với Armenia để duy trì lệnh ngừng bắn đó. Nhưng chúng ta thấy từ một năm nay, có nghĩa là từ đầu chiến tranh Ukraina, phía Azerbadjan liên tục gây sự cố. Vụ mới nhất là phong tỏa hành lang Latchine do chính quân đội Nga bảo đảm an ninh.   Lý do giải thích tình trạng xuống cấp này và việc ảnh hưởng của Nga dường như đã bị suy giảm liên quan chủ yếu đến việc lập trường nước đôi của Thổ Nhĩ Kỳ đã làm cho Matxcơva hạn chế áp lực ngoại giao, và cũng do sức ép kinh tế từ NATO. Việc Thổ Nhĩ Kỳ tạo thuận lợi có thể là điều kiện « có đi có lại », có nghĩa là Nga phải trung lập hơn trước áp lực ngày càng lớn của Azerbaijan - một đồng minh của Thổ Nhĩ Kỳ - đối với Armenia để gộp toàn bộ vùng Thượng Karabakh vào nước Cộng Hòa Azerbaijan.  Nếu giờ chúng ta đưa ví dụ này vào tình hình Biển Đông, trong giả thuyết xảy ra một cuộc xung đột trực tiếp giữa Việt Nam và Trung Quốc trong tương lai gần, thì e rằng Nga sẽ lại rơi vào tình huống tương tự như chúng ta thấy ở vùng Kavkaz. Thực vậy, sự phụ thuộc nhau về địa-chính trị với Trung Quốc mà chúng ta đề cập ở trên, cũng như việc Nga phải tiếp tục hưởng sự hỗ trợ ngoại giao, kinh tế và nhiều lĩnh vực khác từ cường quốc láng giềng, có thể dẫn đến việc các nhà lãnh đạo Nga phải hạn chế phản đối và thậm chí im lặng trước hành động của Trung Quốc, bất chấp việc Việt Nam là một nước có lợi cho Matxcơva như chúng ta đã nói.  Vì thế, tất cả sẽ còn phụ thuộc vào mức độ lệ thuộc địa chính trị Nga-Trung, vào thời điểm nổ ra xung đột trong trường hợp xảy ra. Do đó, có lẽ Việt Nam cần kích hoạt trước những kênh ngoại giao với Matxcơva để triển khai một khuôn khổ hợp tác khủng hoảng với Nga và nếu có thể, tác động đến phân tích của Nga về tình hình Đông Nam Á.  Đọc thêm : "Việt Nam muốn khẳng định chính sách đối ngoại độc lập và tự chủ" khi tiếp ngoại trưởng Nga RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
    15.5.2023
    11:26
  • Biển Đông: Việt Nam trước áp lực của Trung Quốc về đàm phán song phương
    Trên chuyến bay đến Hoa Kỳ để họp thượng đỉnh với tổng thống Mỹ Joe Biden ngày 01/05/2023, tổng thống Ferdinand Marcos Jr. cho biết Trung Quốc đồng ý thảo luận với Philippines về quyền đánh cá ở Biển Đông. Trước đó, ngày 22/04/2023, nhân chuyến viếng thăm của ngoại trưởng Tần Cương ở Manila, Philippines và Trung Quốc cũng đã cam kết “sẽ cùng nhau giải quyết các bất đồng về Biển Đông”, vùng biển mà hai nước đều có những yêu sách chủ quyền.  Về phần Malaysia, quốc gia khác cũng có tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc, phát biểu trước Quốc Hội ngày 03/04, khi tường trình về chuyến thăm Trung Quốc của ông vào cuối tháng 3, đầu tháng 4, thủ tướng Anwar Ibrahim đã tuyên bố là tập đoàn dầu khí nhà nước Petronas của Malaysia sẽ tiếp tục các hoạt động thăm dò ở Biển Đông, nhưng Malaysia “sẵn sàng thương lượng về các mối quan ngại của Trung Quốc về những hoạt động này”. Những sự kiện nói trên phải chăng cho thấy là Trung Quốc đang dần dần thuyết phục được Philippines và Malaysia chấp nhận đàm phán song phương với Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông? Riêng Việt Nam đối phó như thế nào trước áp lực đàm phán song phương của Trung Quốc? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 19/04/2023, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Việt Nam trước hết nhắc lại chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc:  “Thật ra Trung Quốc đã có một chủ trương rất lâu, từ thời lãnh tụ Đặng Tiểu Bình. Năm 1990, ông đã đưa ra một chủ trương là “gác tranh chấp, cùng khai thác”, dưới vỏ bọc là “khai thác chung” ( tiếng Anh gọi là “joint development” ). Nội dung “khai thác chung” thật ra về cơ bản khác với “gác tranh chấp, cùng khai thác”: Thứ nhất là chủ quyền thuộc về Trung Quốc, tức là nếu có chấp nhận khai thác chung thì mặc nhiên công nhận chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc đã đã thúc đẩy quan điểm này, một mặt sử dụng sức mạnh để đe dọa. Trong suốt thời gian qua và cả hiện nay, các tàu của Trung Quốc vẫn đang xâm phạm trái phép vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia và Philippines, đe dọa các hoạt động thăm dò dầu khí, hoặc các hoạt động khác trên vùng đặc quyền kinh tế của các nước này.  Một mặt Trung Quốc đe dọa như vậy, mặt khác, Trung Quốc luôn dùng sức mạnh kinh tế của mình để kêu gọi các quốc gia khai thác chung với Trung Quốc. Bốn quốc gia mà Trung Quốc luôn nhắm tới đó là Brunei, Việt Nam, Malaysia, Philippines. Trung Quốc luôn luôn muốn đưa một trong các quốc gia này hoặc các quốc gia này vào kế hoạch “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Nhưng theo nghiên cứu của tôi, trong số 4 quốc gia kể trên, chưa có quốc gia nào ký kết bất ký điều gì về khai thác chung với Trung Quốc.”  Đối với Philippines và Malaysia, Bắc Kinh đã từng tranh thủ lúc mà hai nước này có một lãnh đạo với xu hướng phần nào nghiêng về Trung Quốc hơn, để cố thúc đẩy họ chấp nhận chủ trương khai thác chung. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt điểm lại thời kỳ tổng thống Rodrigez Duterte của Philippines trước đây và thời kỳ thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim hiện nay:  “Năm 2016,  tổng thống Philippines lúc đó là Rodriguez Duterte đã chủ trương xoay trục sang Trung Quốc và quay lưng lại với Mỹ. Mục tiêu quan trọng nhất của ông là giành những lợi thế kinh tế từ Trung Quốc và muốn làm như thế thì ông phải chấp nhận điều mà Trung Quốc yêu cầu, đó là chủ trương khai thác chung với Trung Quốc. Dưới thời ông Duterte đã có một số ồn ào liên quan đến việc hai bên đã ký một số thỏa thuận về khai thác chung. Nhưng thực ra cho đến nay chưa có một bước tiến nào.  Tân tổng thống Ferdinand Marcos Jr. đầu năm nay cũng đã có một chuyến công du Bắc Kinh. Trong chuyến đi này, ông và chủ tịch Tập Cận Bình đã có một tuyên bố chung trong đó có nhắc đến “khai thác chung”. Nhưng khi ông quay về Philippines thì lập tức Tòa án Tối cao Philippines ra một phán quyết rằng thỏa thuận ba bên (JSMU), ký từ rất lâu trước đó ( 2005 ), đã hết hiệu lực từ năm 2007. Mười lăm năm không ra tuyên bố, mà đến lúc ông Marcos Jr. mới đi Trung Quốc về, khi hai bên ra tuyên bố chung nhắc đến “khai thác chung”, thì tòa án ra phán quyết xem thỏa thuận ba bên thăm dò địa chấn ở Biển Tây Philippines ( Biển Đông ) là “vô hiệu”, vì nó đã “vi hiến”. Phán quyết này được coi như là một tín hiệu đáp trả đối với quyết định “khai thác chung” của Marcos Jr. Với việc Tòa án Tối cao đã đưa ra một tiền lệ như vậy, tổng thống Marcos Jr. sẽ rất là khó mà ký các thỏa thuận “khai thác chung” với Trung Quốc, vì sẽ bị xem là “vi hiến”.  Về phần thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim, ông muốn thay đổi chính sách, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang khó khăn, muốn xoay trục sang Trung Quốc, để có thể tranh thủ các lợi ích kinh tế, nhưng việc khai thác chung cũng không phải là dễ, còn rất nhiều khó khăn.  Khai thác chung với Trung Quốc thực chất là khai thác tại vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác, mà điều này, theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, là đặc quyền của quốc gia ven biển đó.  Thực chất có lẽ đây là những tuyên bố mang tính chính trị để có thể giành được những lợi ích từ Trung Quốc. Đương nhiên Trung Quốc cũng biết điều đó và họ rất giỏi chơi bài. Cho nên, nếu những quốc gia như Malaysia hay Philippines muốn “chơi bài” với Trung Quốc, thì Trung Quốc cũng sẵn sàng chơi, mà Trung Quốc sẽ đạt được những mục tiêu, những lợi ích của họ.  Tổng thống Duterte của Philippines, trước khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống, đã phải hủy bỏ tất cả những tuyên bố, những chính sách của ông về khai thác chung với Trung Quốc. Nhiều nhà nghiên cứu của Philippines nói rằng ông Duterte cũng đã vỡ mộng khi thấy Trung Quốc hứa hẹn thì rất nhiều, hứa hẹn đầu tư hàng chục tỷ đôla vào nền kinh tế Philippines, nhưng trên thực tế thì không có bao nhiêu cả. Đó là câu chuyện khiến nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á phải suy nghĩ kỹ về vấn đề này.”  Riêng đối với Việt Nam thì dĩ nhiên Bắc Kinh bao giờ cũng tìm cách gây sức ép để buộc lãnh đạo Hà Nội chấp nhận chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác”, để đạt được những thỏa thuận như thỏa thuận về phân chia Vịnh Bắc Bộ. Nhưng theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, cho tới nay Việt Nam chỉ chấp nhận thương lượng dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển:  “Chắc chắn là Trung Quốc sẽ gây sức ép. Vấn đề nổi cộm đầu tiên đó là Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đã thỏa thuận thành công về Vịnh Bắc Bộ, nhưng còn về cửa Vịnh Bắc Bộ thì chưa phân định được. Hai bên cũng đã nhiều lần đàm phán để phân định, nhưng cho đến nay vẫn chưa có tiến triển, vì lập trường của hai bên quá xa nhau. Việt Nam thì vẫn kiên trì chủ trương là phải dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, còn Trung Quốc thì dựa trên “đường lưỡi bò”. Hai lập trường này quá xa nhau. Chúng ta còn nhớ là về “đường lưỡi bò”, trong phán quyết về Biển Đông 2016, Tòa Trọng Tài Thường Trực, dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển cũng đã tuyên rõ là yêu sách về quyền lịch sử đối với vùng nước và tất cả những thực thể bên trong “đường lưỡi bò” là không có cơ sở pháp lý, cho nên vô giá trị. Phán quyết này cũng nói rằng những quy định của Công ước về Luật Biển cũng sẽ cao hơn so với cái gọi là “quyền lịch sử”.  Quan điểm của Việt Nam vẫn trước sau như một, đó là phải dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Chính điều đó đã dẫn tới khó khăn khi Việt Nam và Trung Quốc đàm phán về cửa Vịnh Bắc Bộ. Nói thế để thấy là có rất nhiều vấn đề mà Trung Quốc muốn Việt Nam tham gia vào kế hoạch “gác tranh chấp, cùng khai thác”, nhưng chắc chắn là Việt Nam sẽ không thể tham gia được, bởi vì tham gia như vậy chẳng khác gì  thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc và thứ hai là cho Trung Quốc khai thác trên chính vùng biển mà lẽ ra quyền khai thác là của mình, theo quy định của luật pháp quốc tế.” Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, Việt Nam cũng sẽ khó mà tham gia thỏa thuận giống như thỏa thuận ba bên giữa Philippines, Trung Quốc và Việt Nam (JSMU) năm 2005:  “Chắc chắn là khó lập lại, bởi vì câu chuyện thỏa thuận ba bên đó cũng là một câu chuyện lịch sử. Philippines ký thỏa thuận đó vào thời tổng thống Gloria Arroyo, một lãnh đạo nổi tiếng thân Trung Quốc.  Khi bà ký thỏa thuận thì ban đầu chỉ là thỏa thuận hai bên Philippines và Trung Quốc. Ngay lập tức báo chí Philippines đã lao vào mổ xẻ, thì mới thấy là bà có rất nhiều vi phạm. Thậm chí sau này hết nhiệm kỳ tổng thống của Arroyo, người ta còn phát hiện là trước đó bà đã cử một thượng nghị sĩ sang gặp Trung Quốc để bàn việc “đi đêm” trong vấn đề Biển Đông. Thậm chí sau đó tòa án còn quản thúc bà Arroyo trong một thời gian. Vào lúc đó, khi biết được thông tin hai bên ký kết thỏa thuận thăm dò địa chấn giữa Philippines và Trung Quốc, Việt Nam đã phản đối. Philippines và Trung Quốc đã đấu dịu bằng cách mời Việt Nam tham gia. Việt Nam lúc ấy cũng muốn tham gia để nắm tình hình và không để cho vấn đề đi quá xa. Trong thời gian tới, chắc chắn là Việt Nam không thể tham gia những thỏa thuận này.” Khi đến Bắc Kinh vào tháng 11/2022 để gặp chủ tịch Tập Cận Bình, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã cùng với đồng nhiệm Trung Quốc ra tuyên bố chung, trong đó có một phần bao gồm 4 điểm liên quan đến Biển Đông. Trong điểm thứ 3, hai ông Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng nhất trí "thúc đẩy bàn bạc về hợp tác phát triển trên biển và bàn bạc về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy hai việc trên sớm đạt tiến triển thực chất".  Nhưng trong tuyên bố chung, hai lãnh đạo nhắc lại là trước mắt Việt Nam và Trung Quốc sẽ chỉ nhất trí đàm phán về các biện pháp giải quyết “mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường, chủ trương của mỗi bên”, trong khi chờ tìm kiếm “giải pháp cơ bản lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được”.
    8.5.2023
    9:22
  • Marcus Mạnh Cường Vũ: Hành trình gian nan của đạo diễn độc lập
    Trong một thị trường đầy dẫy phim mang tính thương mại như tại Việt Nam hiện nay, những nhà làm phim độc lập như Marcus Mạnh Cường Vũ gặp rất nhiều khó khăn để thực hiện những bộ phim nghệ thuật. Nhà đạo diễn trẻ này đã phải bỏ ra đến 5 năm để cố gắng hoàn thành một tác phẩm có chất lượng tầm cỡ quốc tế. Công sức đó đã không uổng phí, bộ phim truyện dài đầu tay của anh “Memento Mori: Đất” cuối cùng đã “lọt được vào mắt xanh” của giới điện ảnh quốc tế.  Sau khi được dự tranh một giải tại Liên hoan phim quốc tế Busan, Hàn Quốc, phim của Marcus Mạnh Cường Vũ đã được tham gia tranh giải ở Liên hoan Quốc tế Điện ảnh châu Á Vesoul, Pháp, đầu tháng 3 vừa qua. Và Vesoul đã là một bệ phóng mới cho tác phẩm của anh vươn ra thế giới: Đầu tháng 4, “Memento Mori: Đất” sẽ dự tranh giải tại Liên hoan phim châu Á Roma, rồi đến tháng 9 sẽ sang Mông Cổ dự Liên hoan phim quốc tế Ulan Bator. Nhưng cuộc hành trình của những đạo diễn độc lập như Marcus Mạnh Cường Vũ vẫn còn lắm gian nan. Tại Liên hoan Vesoul, RFI Tiếng Việt đã có dịp gặp và phỏng vấn đạo diễn Marcus Mạnh Cường Vũ. Mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn sau đây:  RFI: Xin chào Marcus Mạnh Cường Vũ, “Memento Mori: Đất” là bộ phim thứ nhất của một loạt ba bộ phim mà Marcus dự định sẽ hoàn tất trong thời gian tới, với phim thứ hai là “ Memento Mori: Nước” và thứ ba là “Memento Mori: Lửa”. Để thực hiện bộ phim đầu tiên, Marcus đã bỏ ra rất nhiều thời gian, vì anh là một nhà làm phim độc lập không nhận tài trợ của bất cứ công ty nào. Vậy thì quá trình thực hiện phim đã gặp những khó khăn như thế nào? Marcus Mạnh Cường Vũ : Nhà làm phim ở Việt Nam, nhất là nhà làm phim độc lập phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thứ nhất là khó khăn về tài chính, thứ hai là lo ngại về kiểm duyệt. Đối với cá nhân tôi, khi làm dự án “ Memento Mori: Đất’, tôi đã xác định đây là một dự án mang ý nghĩa cộng đồng, không chỉ là một bộ phim độc lập, khi tôi đến nói chuyện với mọi người cũng như khi thông báo cho mọi người biết dự án, thì ai cũng hiểu tinh thần của dự án và đã hỗ trợ hết sức mình. Bộ phim không có nguồn tài trợ từ nước ngoài mà hoàn toàn là từ sự đóng góp của rất nhiều người trong nước. Chúng tôi đã huy động vốn cộng đồng ( crowdfunding), thì đã nhận được rất nhiều bàn tay chung vào. Có những nhà đầu tư, gọi là nhà đầu tư “thiên thần”, tham gia vào bộ phim mà không mong chờ lợi nhuận. Cũng có những công ty, cơ quan đóng góp dịch vụ và công sức vào bộ phim mà không tính đến tiền bạc. Làm phim luôn luôn khó khăn và làm một bộ phim đạt chuẩn quốc tế đòi hỏi một sự chu toàn, kỹ lưỡng trong rất nhiều năm. Với “ Memento Mori: Đất”, tôi đã cần đến gần 5 năm để hoàn thiện. Phần quay chính của bộ phim đã diễn ra trong thời điểm đại dịch Covid-19, nên việc làm phim lại càng khó khăn hơn. Chúng tôi đã phải dời lịch quay một số lần do chính sách của chính phủ thay đổi mỗi ngày. Bên cạnh đó, vào thời điểm làm hậu kỳ thì chúng tôi không gặp nhau được, ví dụ như làm nhạc, thì những người nhạc sĩ là sống bên châu Âu, cho nên chúng tôi phải làm việc với nhau từ xa. Cũng như là bài hát "Going Home" trong phim do một ca đoàn thiếu nhi ở Hà Nội thâu âm, thì lúc đó tôi không có mặt được và chính các em nhỏ, được sự hướng dẫn của một người tổ chức hợp xướng Gió Xanh, đã tự làm việc với nhau và tôi chỉ là người thẩm âm cuối cùng, xem là chất lượng như vậy đã được hay chưa.  Dù công việc làm phim khó khăn như thế nào thì rất may mắn là dự án này đã đến được đích đầu tiên đó là có một phim truyện đầu tiên và phim đã đến được Vesoul, đến với khán giả ở châu Âu, ở Pháp, nơi mà số người yêu điện ảnh rất nhiều và có kiến thức về điện ảnh rất cao. Được sự đón nhận của mọi người, mà tôi cảm nhận được qua những lời trò chuyện với khán giả sau mỗi buổi chiếu, đã động viên tôi rất nhiều để tiếp tục cuộc hành trình dài này.  RFI: “Memento Mori: Đất” là phim dành cho những người bị bệnh ung thư, những người đối diện với cái chết. Cái chết là một đề tài rất nặng, không phải dễ mà đưa lên điện ảnh để mọi người thấu hiểu được thông điệp mình muốn đưa ra? Vì sao Marcus mạnh dạn chọn đề tài này để thể hiện nó qua ngôn ngữ điện ảnh? Marcus Mạnh Cường Vũ: Đó là một sự tình cờ, mà cũng có thể là sự sắp đặt của Chúa Trời, bởi vì tôi không có kế hoạch để trở thành nhà làm phim mà đến thời điểm nào đó trong cuộc đời thì tình huống xảy đến và tôi trở thành nhà làm phim. Có nghĩa là câu chuyện và đề tài có trước, rồi mới có mặt tôi trong vai trò người thực hiện nó thành bộ phim. Có thể nói là đề tài cái chết đã chọn tôi. Từ nhỏ tôi đã tiếp cận với cái chết rất là gần, trong gia đình. Câu chuyện về ung thư cũng là câu chuyện trong gia đình tôi. Chứng kiến và đối diện, nhưng chưa bao giờ thật sự đi sâu vào nó, chưa bao giờ thật sự hiểu về ung thư hay về cái chết được báo trước có thể ảnh hưởng đến đời sống của con người như thế nào. Chúng ta sinh ra, lớn lên và đến một lúc nào đó sẽ chết đi, nhưng chúng ta chưa bao giờ ý thức được rằng thời gian của chúng ta là hữu hạn và nhiều khi bỏ phí thời gian vào những việc vô bổ. “Khi được tiếp cận cuốn sách “Điểm đến của cuộc đời” của tác giả Đặng Hoàng Giang kể 3 câu chuyện có thật của những người bị bệnh ung thư cận tử và cách mà họ đối diện với cái chết, cách mà họ chuẩn bị cho sự ra đi khiến cho tôi thấy rằng mình phải bắt đầu một cuộc hành trình, với câu chuyện cá nhân là tôi phải đối diện với nỗi đau của gia đình: bố tôi mất vì ung thư khi tôi mới 14 tuổi và tôi đã chứng kiến sự đau đớn của ông trong những ngày cuối đời.  Cái chết đúng là một đề tài rất nặng, tuy nhiên tôi muốn khán giả bắt đầu một cuộc hành trình đối diện với cái chết của mình hay của người thân mình một cách nhẹ nhàng hơn và tìm ra ý nghĩa của những thời gian hiếm hoi còn sót lại, để mình có thể làm gì cho nhau và làm điều gì tốt đẹp cho cuộc đời. Tôi nghĩ đó luôn luôn là một điều mà con người nên nhắc nhở và “Memento Mori: Đất” chính là lời nhắc nhở đó: Hãy nhớ rằng bạn sẽ chết (đó là từ theo tiếng La tinh), nhưng khi chúng ta hiểu rằng mình sẽ chết thì đó cũng là lời nhắc nhở rằng chúng ta đang sống”. RFI: Đúng là xem phim này thì khán giả bình thường cảm thấy rất là nặng nề, vì phim buộc chúng ta suy nghĩ về rất nhiều điều và những cảnh quay thì rất là chậm và những khoảng không gian tĩnh lặng khá nhiều, phim không có nhiều đối thoại. Liệu ngôn ngữ điện ảnh đó có thể giúp khán giả hiểu rõ được thông điệp mà Marcus muốn chuyển tải? Marcus Mạnh Cường Vũ: Tôi nghĩ là có, nếu khán giả chịu dành khoảng thời gian một tiếng rưỡi cho bộ phim, chú tâm vào xem bộ phim. Bộ phim với nhịp như vậy không phải là chủ đích mà tôi đặt ra ngay từ đầu, mà đó là cái nhịp của chính đời sống của nhân vật trong phim. Vân, nhân vật chính trong phim, biết rằng mình chỉ còn một vài tuần, một vài tháng để sống. Tuy thời gian có vẻ ngắn ngủi, nhưng khi phải trải qua từng ngày và biết rằng mình đang sống, và sống có ý nghĩa và phải chuẩn bị cho sự ra đi của mình thì từng thời khắc đó trở nên rất là dài. Và đấy chính là nhịp của bộ phim cần phải có để thể hiện tâm trạng của nhân vật chính. Ở đây là một người bệnh ung thư cận tử, trải qua những ngày tháng cuối đời như thế nào. Nếu khán giả chịu khó bắt nhịp vào nhịp của nhân vật, nhịp của bộ phim thì khán giả sẽ thấy nó không còn quá chậm nữa và đấy chính là cái nhịp phù hợp của đời sống. Đôi khi chúng ta quên mất rằng một ngày có 24 giờ và chia nhỏ ra từng giây, từng giây ấy là từng nhịp thở của mỗi chúng ta. Nếu chúng  ta sống vội quá, chúng ta bị cuốn hút vào rất nhiều thứ trong cuộc sống, chúng ta quên mất từng giây đó trôi qua như thế nào, chúng ta quên mất nhịp thở của chính mình, thì rất có thể là chúng ta đã bỏ phí đời sống của chính mình.    RFI: Sau “Memento Mori: Đất” là đến “Memento Mori: Nước”, rồi sau đó là  “Memento Mori: Lửa”. Như vậy là Marcus sẽ tiến hành thực hiện các phim đó như thế nào? Vẫn theo hướng như bộ phim đầu? Marcus Mạnh Cường Vũ: Mỗi bộ phim sẽ đòi hỏi một cách thể hiện phù hợp, tùy theo cốt truyện, vào hành trình của nhân vật. Chẳng hạn như trong phim “Memento Mori: Nước” mà tôi đang chuẩn bị tiến hành, sau Liên hoan Vesoul, tôi sẽ đi Nhật Bản trong một tuần để khảo sát tình hình, bối cảnh bên đó, vì câu chuyện sẽ có một phần diễn ra ở Nhật Bản. Nhịp của “Memento Mori: Nước” sẽ tập trung vào hành trình của một người mẹ trải qua nỗi đau mất một đứa con nhỏ. Hành trình đấy sẽ có lúc lên xuống như hành trình của nước và nó sẽ đòi hỏi cách thể hiện phù hợp. Còn  “Memento Mori: Lửa” là câu chuyện về Liên, một cô gái trẻ phát hiện ung thư vú năm 18 tuổi. Cô chọn một cách đối diện rất là khác với những người bệnh ung thư khác. Với sự ngạo nghễ của tuổi trẻ, cô từ chối chữa trị và sống một đời sống theo ý của cô, một đời sống trẻ, vô cùng hừng hực lửa. Như vậy, nhịp phim sẽ không chậm như là “Memento Mori: Đất”, mà cần một nhịp đúng với tuổi trẻ đó. Còn tựu trung lại thì vẫn có một thông điệp, đó là hãy nhớ rằng chúng ta đang sống, cái chết sẽ đến và làm sao mỗi ngày chúng ta sống có ý nghĩa nhất. RFI: Trở lại công việc của nhà làm phim độc lập. Ở Việt Nam hiện nay, dòng phim thương mại rất mạnh. Riêng đối với những người làm phim như Marcus thì có thể dễ chen chân vào một thị trường phim như vậy, vì thị hiếu của thính giả không tới mức mà chúng ta mong muốn? Marcus Mạnh Cường Vũ: Đây là câu hỏi rất là lớn của các nhà làm phim, của thị trường điện ảnh, cũng như các nhà quản lý ở Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam, khi một bộ phim được hoàn thành, bất kể là phim độc lập hay phim thương mại, khi ra rạp đều phải cạnh tranh với nhau, mà không có bất kỳ sự bảo hộ nào. Khác với Pháp chẳng hạn, ở Việt Nam không có các rạp chiếu độc lập chiếu những bộ phim tương đối khó tiếp cận, tương đối thách thức khán giả hơn một chút, mà người ta thường gọi phim độc lập hay phim nghệ thuật. Khi nhà phát hành nhận phát hành phim thì họ phải tính một bài toán về thương mại như với các bộ phim khác, giống như chúng ta đi chợ và có quyền chọn lựa món hàng. Tuy nhiên, phải hiểu là là vai trò của điện ảnh không phải là thuần túy thương mại. Điện ảnh trước hết là một nghệ thuật. Ở đây, vai trò của nhà quản lý, những người có vai trò chính trong ngành điện ảnh là phải hiểu rằng cần có một sự tồn tại song song của dòng phim nghệ thuật, phim độc lập, bên cạnh phim mang tính thương mại cao. Nếu không có một trong hai dòng phim đó thì “bữa ăn” của chúng ta sẽ không được phong phú và cuối cùng thì sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu của khán giả, đến khả năng cảm nhận, đến việc xây dựng gu thưởng thức nghệ thuật của khán giả. Xét về lâu đài thì điều này sẽ làm mất đi một tài sản vô hình về trí tuệ của con người.  Tôi chỉ mong rằng trong tương lai gần, sẽ có những chính sách, cũng như những người trong ngành điện ảnh, bao gồm cả người làm phim, nhà phát hành, các rạp chiếu, cũng như các nhà sản xuất dám mạnh dạn đi những con đường khác lạ hơn, không theo lối mòn, để có được cơ hội cho nhiều tiếng nói khác nhau trong điện ảnh, chứ không chỉ tập trung vào mục đích thương mại.
    5.5.2023
    15:13
  • Việt Nam : Khởi đầu của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời Pháp thuộc
    Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành trong những đồn điền cao su do thực dân Pháp khai thác ở Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX. Cũng chính đội ngũ tiểu thực dân này đã tạo nên khu vực sản xuất tư bản, chứ không phải là những đại tập đoàn tài chính Pháp. Để phục vụ cho những doanh nghiệp công-nông nghiệp đầy lợi nhuận và “khát” nhân lực, khoảng 50.000 đến 60.000 người Bắc Kỳ và Trung Kỳ được đưa vào làm công nhân trong nửa đầu thế kỷ XX. Họ phải sống, làm việc trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt. Nam Kỳ trở thành cái nôi của chủ nghĩa tư bản, cũng như phong trào đấu tranh công nhân. Bối cảnh và quá trình này được nhà nghiên cứu Hồ Hải Quang, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội - CERESUR - Đại học La Réunion (Pháp) phân tích trong tác phẩm La Cochinchine 1859-1930 : Emergence et développement du capitalisme (tạm dịch : Nam Kỳ 1858-1930 : Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản) do NXB Spinelle phát hành năm 2022. RFI Tiếng Việt phỏng vấn ông Hồ Hải Quang. RFI : Cuốn tiểu luận của ông, tạm dịch là Nam Kỳ : Sự xuất hiện và phát triển chủ nghĩa tư bản, cho thấy chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam không phải do các đại tập đoàn tài chính tạo nên mà là do những nhà thực dân. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện trong bối cảnh như nào ? Hồ Hải Quang : Trước tiên cần phân tích về những sự kiện lịch sử. Trong 40 năm đầu tiên thời thuộc địa, đúng là có vốn được chuyển từ Pháp sang Nam Kỳ, nhưng khối lượng rất nhỏ và số vốn này được đầu tư vào ba lĩnh vực. Thứ nhất là để thành lập Ngân hàng Đông Dương và ngân hàng này hoạt động tốt. Thứ hai là dành cho thương mại, nhưng lại không ổn vì toàn bộ nội thương ở Nam Kỳ vào thời điểm đó nằm trong tay thương lái Trung Hoa. Thương nhân Pháp muốn lập nghiệp ở Nam Kỳ chỉ có thể giao thương với Pháp, có nghĩa là nhập hàng hóa từ Pháp và xuất khẩu hàng Việt Nam sang Pháp. Nhưng như chúng ta biết người Việt lúc đó tiêu thụ rất ít hàng từ Pháp và chẳng có gì xuất sang Pháp cả. Vì thế lĩnh vực thương mại do người Pháp quản lý là vô cùng yếu kém. Liên quan đến lĩnh vực cuối cùng là công nghiệp, thì thất bại hoàn toàn. Tôi đã nghiên cứu hầu hết các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam trong vòng 40 năm đầu thuộc địa, tôi nhận thấy là họ đã hoàn toàn thất bại. Thực ra, chủ nghĩa tư bản chỉ thực sự xuất hiện với việc sản xuất cao su. Hoạt động này bắt đầu vào năm 1898 và có thể phân thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, từ năm 1898 đến 1914, là thời kỳ đồn điền cao su do các thực dân cũng là các chủ đồn điền thành lập. Khi hệ thống này được triển khai và bắt đầu phát triển, hoạt động đúng cách thì bước sang giai đoạn thứ hai. Đó là kể từ năm 1920, các công ty tư bản đã đến đầu tư vốn vào Nam Kỳ để phát triển các đồn điền cao su. Lý do giải thích cho hiện tượng này là lúc đó ngành công nghiệp sản xuất ô tô phát triển mạnh và cần lốp xe. Ngành công nghiệp này đã giúp thị trường phát triển mạnh mẽ vô cùng. Tóm lại, có thể nói rằng khu vực sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành bởi ý tưởng trồng và sản xuất cao su. Những lĩnh vực này trước tiên là do những chủ đồn điền nhỏ lập ra và sau đó được phát triển, chứ không phải do các tập đoàn lớn. RFI : Chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi Nam Kỳ như thế nào ? Hồ Hải Quang : Chủ nghĩa tư bản làm thay đổi Nam Kỳ chủ yếu trên ba lĩnh vực chính. Thứ nhất là sự phát triển của thương mại. Chúng ta biết là lĩnh vực này là rất yếu trước thời thuộc địa Pháp bởi vì sản xuất chủ yếu là lúa gạo, trong khi lúa gạo lại dành cho các nhà nông và gia đình họ tiêu thụ nên có rất ít gạo được bán trên thị trường. Mặt khác, không thể xuất khẩu thóc gạo bởi vì triều đình Việt Nam muốn để dành nhằm tránh cảnh thiếu lương thực, nạn đói… cho nên ngoại thương gần như không tồn tại. Tôi nói như vậy vì tất cả các cuốn sách lịch sử về Nam Kỳ đã cho thấy điều đó. Thực ra không có số liệu thống kê nhưng bằng cách loại trừ, người ta có thể nói rằng loại hình thương mại này cực kỳ yếu. Từ thời thuộc địa Pháp, lĩnh vực thương mại đã phát triển rất nhanh chóng vì ba lý do. Thứ nhất là vì người Pháp đã bắt nộp thuế bằng tiền. Người nông dân buộc phải bán nông sản để có tiền mặt nộp thuế, nên nền kinh tế được tiền tệ hóa. Tiếp theo là diện tích trồng lúa được mở rộng nhờ việc nạo vét kênh rạch giúp tháo lượng nước dư thừa ở đồng bằng sông Cửu Long và giúp nâng sản lượng lúa gạo nhiều hơn. Cuối cùng, chính phủ Pháp đã bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo nên lĩnh vực thương mại này đã có thể phát triển rất mạnh. Thay đổi lớn thứ hai là sự phát triển khu vực sản xuất tư bản, cùng với việc trồng cây cao su gắn liền với kinh tế nông dân mà tôi vừa đề cập ở trên. Lĩnh vực này phát triển khá xa thành thị, ở những khu rừng nguyên sinh khó vào và thưa dân cư. Cho nên cần phải có vốn. Đó là lý do vốn được chuyển từ Pháp đến Nam Kỳ để lập những đồn điền như vậy. Và cũng vì có ít nhân lực nên họ đã phải tổ chức di cư lao động, đưa nhân công từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào. Đó là những người làm công ăn lương ký hợp đồng lao động từ 3 đến 5 năm. Những hợp đồng này đặc biệt ở chỗ công nhân đã ký vào chúng thì không có khả năng chấm dứt, không thể khiếu nại, do đó họ phải phục tùng các công ty tư bản từ 3 đến 5 năm mà không thể thoát được. Điểm quan trọng thứ ba trong chế độ lao động này là công việc gần như được tổ chức theo kiểu nhà binh. Để chỉ huy công nhân, các công ty tư bản chủ yếu tuyển cựu quân nhân Pháp giải ngũ. Kiểu hợp đồng lao động này khiến người lao động Việt Nam bị bóc lột vô cùng nặng nề nên sức khỏe của họ bị tổn hại. Nhiều người đã chết vì bệnh tật, còn nhiều người khác thì muốn về quê sau khi hết hạn hợp đồng. Vì thế các công ty cao su đã phải lập cơ chế quay vòng. Có nghĩa là những người lao động phần nào bị kiệt sức, không thể tiếp tục làm việc thì bị đưa trả về quê quán và người ta tuyển một đội công nhân khác. Nói một cách ẩn dụ, những công ty cao su này hoạt động như những máy bơm, hút và đổ người lao động. Thay đổi thực sự qua trọng thứ ba mà chủ nghĩa tư bản tạo ra, đó là để tự vệ, các công nhân đã bắt đầu đoàn kết với nhau. Họ thành lập các tổ chức chống chủ nghĩa tư bản. Đó là những công đoàn, những phôi thai của đảng Cộng sản bắt đầu hình thành trong các khu đồn điền. RFI : Ông cũng nêu rằng Nhà nước thuộc địa đóng vai trò quyết định trong việc thành lập các doanh nghiệp tư bản. Vai trò đó là gì ? Hồ Hải Quang : Vậy phải xem Nam Kỳ được điều hành như thế nào ? Đứng đầu Nam Kỳ là một thống đốc do chính phủ Pháp bổ nhiệm. Nhưng về mặt kinh tế, thực quyền lại thuộc về Hội đồng Thuộc địa, được thành lập năm 1880. Hội đồng này trước tiên có thể tạo ra các loại thuế mới, tăng thuế và quản lý chi tiêu mà họ muốn. Thông qua hệ thống thuế đó, Hội đồng đã có thể tích được rất nhiều tiền trong ngân khố Nhà nước, số tiền sau đó được phân phối đến các nhà thầu. Tiền thu được từ người dân Việt Nam đã cho phép tích lũy tư bản đầu tiên bằng tiền nằm trong tay người Pháp. Đây là cách để vốn đến tay những chủ đồn điền Pháp. Ngoài ra, Hội đồng Thuộc địa đã trưng thu khoảng 80% diện tích đất Nam Kỳ bằng cách trục xuất người Việt, nhiều người sống trên các vùng cao nguyên cũng bị trục xuất khỏi nơi cư trú. Hội đồng Thuộc địa đã phân chia số đất lớn đó cho các chủ đồn điền Pháp, ban đầu hầu hết là cho không, sau đó là chuyển nhượng với số tiền rất ít ỏi. Bằng cách đó, Hội đồng Thuộc địa là công cụ giúp tích lũy vốn bằng tiền và đồng thời trao phương tiện sản xuất cho các công ty tư bản. Hệ thống tư bản ra đời như vậy ở Việt Nam. Ngoài ra còn có điểm thứ ba cần nhấn mạnh, đó là chế độ lao động, cách tổ chức lao động, các quyền lao động cũng đã được thống đốc Nam Kỳ áp dụng. Và chế độ lao động đó được sắp xếp rất hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho các công ty tư bản để có thể không ngừng bóc lột công nhân. RFI : Chủ nghĩa tư bản đã biến khỏi Việt Nam hay không hay đã chuyển sang một hình thức khác ?  Hồ Hải Quang : Hệ thống tư bản mà tôi đề cập ở trên tồn tại ở Nam Kỳ, cũng như ở miền bắc Việt Nam trong các mỏ than. Hệ thống này tồn tại cho đến năm 1945 khi chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Sau đó Pháp điều quân đội tới và chiến tranh Đông Dương kéo dài từ năm 1946 đến 1954. Hiệp định Geneve đã chấm dứt chiến tranh Đông Dương năm 1954 và Việt Nam bị chia thành hai miền, miền bắc do chính phủ của Hồ Chí Minh quản lý, còn miền nam là Việt Nam Cộng Hòa là một nước tư bản. Ở miền bắc, các nhà lãnh đạo cố gây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa nên họ từng bước loại bỏ những cơ sở của hệ thống tư bản và họ đã làm được việc đó. Trong chiến tranh Việt Nam, miền bắc cũng như miền nam đều phụ thuộc chủ yếu vào hỗ trợ của các nước bạn, ví dụ Liên Xô giúp miền bắc, Mỹ giúp miền nam. Kết thúc chiến tranh năm 1975, đất nước thống nhất. Lúc đó, miền bắc Việt Nam giành chiến thắng và muốn mở rộng đến miền nam cơ cấu kinh tế đã được xây dựng ở miền bắc. Và sự mở rộng này đã dẫn đến một hệ quả vô cùng sâu sắc. Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế vô cùng nghiêm trọng. Việc này đã khiến chính phủ Việt Nam vào năm 1986 phải triển khai chính sách “Đổi mới”, một mô hình kinh tế mới gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, hệ thống kinh tế mới này được tổ chức theo hai trục chính. Trước tiên là phát triển lĩnh vực tư nhân, có nghĩa là phần nào đó thúc đẩy tư bản chủ nghĩa. Thủ công tư nhân, thương mại tư nhân được phép phát triển. Trục thứ hai là tái hội nhập Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Vì thế, năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - OMC. Trong những năm tiếp theo, Việt Nam đã ký rất nhiều hiệp định thương mại song phương với các nước khác. Cuối cùng, Việt Nam đã ưu tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư gia tăng đáng kể đã giúp củng cố bộ máy sản xuất, giúp Việt Nam sản xuất hàng hóa. Và với việc Việt Nam gia nhập OMC, những hàng hóa này được xuất ra thị trường thế giới. Việc này đã cho phép Việt Nam cất cánh về kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người một cách đáng kể. Cần biết rằng từ năm 1990 đến 2018, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam gần như đã tăng gấp 5 lần. Đó là con số rất lớn. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Hồ Hải Quang, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội, Đại học La Réunion, Pháp.
    1.5.2023
    10:19

Weitere Regierung Podcasts

Über Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam

Podcast-Website

Hören Sie Tạp chí Việt Nam, Inside Austria und viele andere Radiosender aus aller Welt mit der radio.at-App

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Jetzt kostenlos herunterladen und einfach Radio hören.

Google Play StoreApp Store

Tạp chí Việt Nam: Zugehörige Podcasts

Tạp chí Việt Nam: Zugehörige Sender